Lửa Máu Hận Thù
“Đại Lộ Kinh Hoàng”, nơi gần 2.000 con người chạy loạn đã bị Cộng quân pháo kích chết thê thảm, không bút nào tả siết được, vào Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 khi Cộng quân từ phiá bắc tràn qua sông Bến Hải đánh chiếm Quảng Trị, trắng trợn vi phạm Hiệp Định Ngừng Chiến Genève 1954.
Nhân chứng sống, cựu Trung sĩ Phan Văn Châu, người đã sống và chứng kiến tận mắt cảnh đồng bào bị pháo kích Cộng sản tàn sát trên cái mà phóng viên chiến trường của nhật báo Sóng Thần, NgyThanh, đã đặt tên là "Đại Lộ Kinh Hoàng" sau khi anh và đồng nghiệp Đoàn Kế Tường là hai người đầu tiên đặt chân lên đọan đường này hai tháng sau cuộc tàn sát, và Chương trình hốt xác đồng bào tử nạn trên Đại lộ "Kinh hoàng" do nhật báo Sóng Thần phát động -
(Trùng Dương).
Đại lộ "Kinh hoàng" trước khi được công binh của Việt Nam Cộng Hoà mang xe ủi qua, gạt các xác xe dạt xuống hai bên vệ đường, mở 1 lối đi nhỏ trên mặt nhựa cho các xe tiếp tế đạn dược lên phiá Quảng Trị, cũng như lấy thương binh và xác tử sĩ. (Ảnh Ngy Thanh, chụp ngày1tháng 7, 1972)
(huyenthoai.org)
Miếu tưởng niệm vong hồn những nạn nhân bị Việt cộng thảm sát trên Đại lộ "Kinh hoàng" được lập nên ngay sau khi thị trấn Quảng Trị được giải vây bởi Quân lực Việt Nam Cộng hoà.
*****
Hốt Xác Đồng Bào Tử Nạn trên "Đại Lộ Kinh Hoàng"
Lời giới thiệu: Loạt bài bên dưới do ba người -- nhà văn Giao Chỉ, ký giả và phóng viên nhiếp ảnh NgyThanh, và cá nhân tôi, Trùng Dương -- viết từ ba góc nhìn về ba thời điểm khác nhau, song cùng một chủ đề:
Nhân chứng sống, cựu Trung sĩ Phan Văn Châu, người đã sống và chứng kiến tận mắt cảnh đồng bào bị pháo kích Cộng sản tàn sát trên cái mà phóng viên chiến trường của nhật báo Sóng Thần, NgyThanh, đã đặt tên là "Đại Lộ Kinh Hoàng" sau khi anh và đồng nghiệp Đoàn Kế Tường là hai người đầu tiên đật chân lên đọan đường này hai tháng sau cuộc tàn sát, và Chương trình hốt xác đồng bào tử nạn trên ĐLKH do nhật báo Sóng Thần phát động-- (Trùng Dương).
-
Nhân chứng
qua đêm
Khi đi tìm nhân
chứng của một
chiến trường hết
sức oan nghiệt
và thê lương,
hết sức dũng
mãnh và hào
hùng, tôi vẫn
không quên đoạn
đường đầy xác
người trên Quốc
Lộ số 1.
Ngay khi chiến
trường còn vương
khói súng, cây
bút nhẩy dù, đại
úy Phan Nhật Nam
đã viết “Mùa hè
đỏ lửa”. Tác
phẩm đem vinh
quang cho tác
giả đồng thời
cũng làm khổ ông
sau 1975. Nhưng
trước sau “Mùa
hè đỏ lửa” đã
gắn liền vào tên
tuổi Phan Nhật
Nam.
Phải chờ đến 32
năm sau, Hà Nội
mới xuất bản
cuốn “Mùa hè
cháy” của đại tá
pháo binh “quân
đội nhân dân”
viết về trận
pháo kích của
trung đoàn pháo
Bông Lau, trận
pháo dã man trên
đường di tản của
dân Quảng Trị,
giết chết hàng
ngàn người và
làm đoạn đường
trên 2 cây số
giữa con sông
Thạch Hãn và Mỹ
Chánh trở thành
“Ðại Lộ Kinh
Hoàng”.
Chúng tôi vẫn đi
tìm xem ai là
người đặt tên
cho đoạn đường
của trận thảm
sát mùa hè năm
1972. Có lẽ chỉ
trong chiến
tranh Việt Nam
mới có cái đại
lộ mang tước
hiệu kinh hoàng.
Một lần khác, chúng tôi rao lên là muốn tìm gặp những ai đã chạy trên con đường ác độc vào đúng lúc địch pháo kích. Tôi biết có trung tá Lê Huy Linh Vũ của Tổng cục Chiến tranh Chính trị là người đã trải qua và đã viết lại thành cuốn sách. Con gái của Trung tá Vũ là họa sĩ Hương, Alaska, có cho phép chúng tôi in lại cuốn này để tặng các bạn. Nhưng ông Vũ nay không còn nữa.
Ðại tá Hà Mai Việt, tỉnh trưởng Quảng trị thời kỳ 1972 đã nói rằng: “Tại ông không lưu tâm đọc sách của tôi. Mở trang này ra mà xem, nhân chứng sống là ông Phan văn Châu. Tôi đã viết rõ từng trường hợp của trận Quảng Trị trong tác phẩm Thép và Máu. Ông nhân chứng này không những chịu đựng trực tiếp trận pháo trên quốc lộ mà còn nằm lại một đêm giữa các xác chết.” Sau cùng nhờ ông Hà Mai Việt, chúng tôi đã gặp nhân chứng sống. Trung sĩ Phan văn Châu, năm nay 68 tuổi, quả thực là một người dân tiêu biểu của miền đất Quảng. Qua máy điện thoại, dường như cả một trời tâm sự tuôn tràn. Những hình ảnh quê hương, chiến tranh, loạn lạc, pháo kích, khói lửa, lẫn lộn giữa trận 1972 và trận 1975.
Nói đến chuyện đất nước biết bao nhiêu địa danh: nào là Nhan Biều, Cầu Ga, Ái Tử, Mai Lĩnh, Cầu Dài. Rồi đến biết bao nhiêu con sông, bao nhiêu rạch nước. Âm thanh đất Quảng của người dân chân chỉ hạt bột, vòng qua quay lại để sau cùng trở về với cái ngày cả gia đình bỏ Nhan Biều mà đi.
Ông Châu nói rằng, lúc đó dường như mọi người đã chạy hết. Phan văn Châu là trung sĩ thông dịch viên cho ngành tình báo tại Ðà Nẵng đang đi công tác về Ái tử.
Ðến khi thiên hạ bỏ chạy hết, thầy thông ngôn trẻ tuổi mặc đồ dân sự cùng một đứa cháu, dẫn vợ có bầu với ba đứa con nhỏ, năm một, 6, 7, và 8 tuổi. Tất cả vội vàng ra đi bỏ lại phía sau căn nhà mới cất tại Nhan Biều bên bờ bắc của sông Thạch Hãn.
Vợ con đi trước một đoạn với gia đình bà chị. Thằng cháu và ông Châu đi xe gắn máy kéo theo một chiếc xe gỗ hai bánh. Hành trang chất đầy, người kéo, người đẩy, chiếc xe qua khỏi cầu Ga, đi được một đoạn dài đến 9 giờ sáng thì pháo nổ ngay trên đường. Con đường đầy người chạy loạn. Cả dân cả lính với đủ mọi thứ xe. Ða số đi bộ vì đường tắc nghẽn nên không thể đi nhanh. Ðạn rơi chỗ nào cũng có người chết. Xác bắn tung lên trời. Khói lửa mù mịt. Mạnh ai nấy chạy. Vợ con thất lạc ngay từ lúc đó. Ông Châu nghĩ rằng vợ con có thể đang ở phía trước. Nhưng phía trước hay phía sau thì cũng bị pháo. Khi pháo tạm ngưng thì có người lại tràn ra đi tới. Nhưng phần lớn nằm yên chịu trận. Có nhiều người không chết ở đợt pháo đầu nhưng rồi bị chết ở các đợt pháo sau. Nhiều xác chết trên đường bị pháo đi pháo lại nhiều lần. Bị thương rồi lại bị pháo rồi cũng chết. Biết bao nhiều người cố chạy cho thoát bỏ lại cả gia đình vợ con. Những đứa nhỏ nằm khóc bên xác mẹ. Những em bé sơ sinh bú vú mẹ đã lạnh khô. Có người còn sống thấy đó mà phải bỏ đi. Ông Châu và đứa cháu chạy về phía đông quốc lộ, vùi thây xuống cát mà chịu đựng một ngày pháo kích. Ðủ loại pháo của cộng sản thay phiên bắn phá suốt một ngày dài. Pháo 122, pháo 130 và pháo 155. Chỉ khi nào có B52 đến thả bom mới thấy địch im tiếng súng được một lúc. Toàn thân ông tê liệt dưới trời nắng gắt. Phải bò đến các vũng nước có cả phân trâu và máu người để uống.
Khi trời tối dần, tất cả đều im lặng và ghê sợ. Ông Châu và đứa cháu bắt đầu bò quanh lật các xác chết đàn bà và trẻ em lên xem có phải vợ con. Lật một xác phụ nữ mà ông nghĩ rằng người vợ, đầu óc ông mê muội. Thằng cháu còn tỉnh táo nói rằng không phải mợ. Mợ có bụng mà cậu. Mấy người khác còn sống cũng làm như vậy. Tất cả đi tìm xác thân nhân. Nhưng rồi trời tối hẳn, bộ đội Việt Cộng bắt đầu xuất hiện. Chúng tìm đến các xe nhà binh và tìm các quân nhân mặc quân phục bắt đi hết. Cậu cháu ông Châu khai là dân thường nên được lệnh phải nằm yên tại chỗ. Ðêm hôm đó, ông Châu thức trắng trên bãi cát đẫm máu của Ðại lộ Kinh Hoàng. Hình như có đôi lúc ông cũng thiếp đi. Cũng chẳng còn nhớ rõ.
Chung quanh toàn xác chết. Người chết nhiều hơn người sống. Những xác chết cháy như than củi . Ông nghĩ rằng chắc xác vợ con cũng quanh đây. Sáng hôm sau, từ sớm mai những người còn sống đành phải bỏ lại một cánh đồng xác ở đằng sau để chạy về miền Nam. Ði đến cầu Dài gần sông Mỹ Chánh thì gặp toán tiền sát của thủy quân lục chiến Việt nam chận lại. Khi biết chắc là không phải quân địch, ông trung úy thủy quân lục chiến phất tay cho qua. Vừa đi khỏi một đoạn đường thì thấy ông sĩ quan bị du kích phía sau bắn sẻ chết ngay tại chổ. Ðó là cái chết cuối cùng ông chứng kiến tại Quảng Trị.
Tìm xe quá giang về Huế với tâm trạng hết sức não nề. Nhưng rồi phép lạ đầu tiên đến với cuộc đời ông. Ngay tại khu vực tạm cư Phú văn Lâu, thuộc thành phố Huế, ông gặp lại đầy đủ vợ con. Bà vợ mang bầu đã dẫn ba đứa con nhỏ đi xuống đường ven biển theo dân địa phương. Ðoàn người đi xa quốc lộ nên tránh được pháo kích.
Vợ con dắt díu nhau đi suốt một ngày một đêm về đến Mỹ Chánh, rồi được xe cho bà bầu quá giang về Huế. Hai năm sau người vợ đầu tiên của ông Châu qua đời, sau khi sinh cho ông thêm ba ngưới con nữa. Cô gái còn nằm trong bụng mẹ trên đại lộ kinh hoàng năm nay đúng 37 tuổi, tốt nghiệp đại học và đã có gia đình, hiện cư ngụ tại miền đông Hoa kỳ.
Những bước chân trần ai trên bãi cát Quảng Trị mùa hè năm 1972 của bà mẹ mang bầu không biết có còn vương vấn chút nào trong lòng cô bé nghe pháo kích từ lúc chưa ra đời. “Tụi nhỏ chẳng biết gì đâu,” ông Châu nói. “Chỉ có đứa lớn nhất năm nay ngoài 40 tuổi là còn nhớ đôi chút.” Hỏi rằng thế ông có được bao nhiêu con tất cả. Ông tính nhẩm rồi nói rằng tất cả 10 con. Bà đầu tiên sáu con. Bà thứ hai ba con. Bà này bỏ tôi đi lấy chồng nên bây giờ vẫn còn ở Việt Nam. Tôi đưa cả ba cháu sang đoàn tụ bên này. Bà hiện nay ở với tôi có một cháu, năm nay cháu 24 tuổi rồi. Bà sau này có một con riêng. Như vậy là chúng tôi có 11 con. Thế bác có hạnh phúc không? “Hạnh phúc chứ. Tất cả là số trời,” ông Châu nói, “Cái đêm nằm ở đại lộ kinh hoàng, uống nước máu người và phân trâu tôi không bao giờ giờ nghĩ đến có ngày đi Mỹ như bây giờ. Tôi nghĩ bấy giờ vợ con chết hết thì mình sẽ ra sao. Làm sao tìm xác? Rồi chôn ở đâu? Hàng trăm xác người chung quanh, biết bao nhiêu xác trẻ con, vợ con tôi đều trong số đó. Không hiểu nó bắn pháo đạn gì quá ác. Tất cả xác chết như than củi chẳng làm sao biết được người nào là người nào.”
“Năm 1973 tôi có trở lại, đi qua con đường thấy có đài tưởng niệm, rồi có các mồ chôn tập thể, có mồ chôn riêng rẽ. Lòng tôi hết sức xúc động,” ông Châu nói. “Cho đến bây giờ tôi vẫn còn xúc động. Con cháu tôi thì nhiều nhưng mà làm sao các con hiểu được những gì tôi đã trải qua. Trận 72 quân ta mới lấy lại một nửa Quảng Trị. Ðứng bên này dòng Thạch Hãn, bên kia là Nhan Biều, nơi tôi ra đời còn cả ngôi nhà thân yêu. Bên ta đã bị địch chiếm bờ Bắc, chỉ giữ được bờ Nam, đến 75 thì bờ Nam cũng chẳng còn.”
“Vâng thưa bác, năm nay em 67 tuổi,” ông Châu nói tiếp, “Quê ở Nhan Biều, bờ bắc sông Thạch Hãn, ngay dưới cầu Ga. Nhà em thi vào làm trung sĩ thông dịch viên năm 1966 khóa 11 tại Quân đoàn I . Sau 75 em trốn được. Nếu khai thật chắc là bị buộc tội CIA. Sau đó em vượt biên rồi đoàn tụ. Trước sau ba vợ, 11 người con. Bà sau này là bà bền chặt nhất đã sống với nhau 25 năm. Vâng, thưa bác, đây chắc chắn là bà sau cùng. Gia đình em rất hạnh phúc. Phần em, dù có bị kinh hoàng nhưng cũng chỉ có một ngày một đêm. So với người ta có người cả đời kinh hoàng thì nỗi khổ của chúng em có thấm vào đâu.”
Ðó là câu chuyện của ông Châu, nhân chứng số 1 của chúng tôi. Tôi hỏi ông Châu câu cuối cùng.
“Ông có biết ai đặt tên Ðại Lộ Kinh Hoàng.” “ Không đâu,” bây giờ ông gọi tôi là cụ. “Cụ với cụ Việt không biết thì ai mà biết. Nhưng quả thực là kinh hoàng thực đấy các cụ ạ.”
Tuy hỏi vậy, nhưng tôi đã tìm ra ai là người đặt tên …
-
"Đại Lộ
Kinh Hoàng"
Bấy giờ, phía Nhảy Dù vẫn giữ cánh trái giữa Quốc Lộ 1 trải dài lên phía Động Ông Đô và căn cứ Barbara, đánh cuốn chiếu ra từ sông Mỹ Chánh. Thủy Quân Lục Chiến cặp sườn QL1 bên trái giăng hàng ngang theo sông Mỹ Chánh ra tới các làng Mỹ Thủy, Gia Đẳng ở trên bờ biển, cùng nhắm hướng tây bắc.
Thấy yên lặng và không có người, cả ta lẩn địch, hai chúng tôi bò theo khung cầu sắt gẫy qua bên bờ bắc, len lách giữa đám mìn chống chiến xa, để quay trở lại QL1.
Đích thân chủ nhiệm từ Saigon ra ăn chay nằm đất với chúng tôi, hàng ngày kết hợp với anh Nguyễn Kinh Châu, trưởng văn phòng đại diện Sóng Thần Huế, và các thân hữu, chúng tôi liên tục tới hiện trường thu nhặt xác chết gói vào từng bao nylon, trước khi bỏ vào quan tài bằng gỗ thô sơ, mai táng ở một khu đất xin được ở phía đông của QL1, ở làng Mỹ Chánh. Khi làm việc nầy, chúng tôi không treo băng dựng bảng để khoe công. Tấm bảng thật lớn cắm ở đầu cầu bên trái sau khi qua khỏi cầu Bến Đá (trước ngày mất nước) là do lệnh của Tổng thống Thiệu. Bốn chữ "Đại Lộ Kinh Hoàng" là chữ của tôi, nhưng bên dưới tấm bảng ghi là "Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu".
Ngy Thanh
Hốt xác đồng
bào
"Trong chiến tranh VN có ba trận đánh quy mô cần quan tâm. Đó là trận Mậu Thân, Hoa Kỳ gọi là Tet Offensive 1968. Trận thứ hai là trận Quảng Trị 1972, Hoa Kỳ gọi là Easter Offensive. Trận thứ ba là 30-4-1975," Ông Lộc cho biết trong lá thư gửi tới thân hữu. "Lịch sử chiến tranh Việt Nam cần có một phim tài liệu về Quảng Trị. Ðây sẽ là phim đầu tiên."
Cứ vậy mà một tuần trôi qua đến ngày tôi phải về lại Saigòn, trước sự bịn rịn của anh chị Châu. Tôi mất ngủ nhiều ngày sau đó, vì sợ thì ít mà vì những gì đã thấy đã khiến tôi như tê dại hẳn đi – cảm giác tê dại mà tôi lại được biết tới vào ba năm sau đó, ngày 30 tháng 4, năm 1975 ...
Bài này cũng xin được coi là thêm một lần nữa, tri ơn những vị hảo tâm đã đóng góp để chương trình "Thác Một Nấm Mồ" được hình thành cách đây đã gần 40 năm. Đồng thời như một nén hương tưởng niệm những người đã bỏ mạng trên Đại Lộ Kinh Hoàng, xác phơi nắng mưa tới hơn hai tháng trời trước khi chúng tôi xin được phép vào tới nơi để làm cái việc hốt xác.
Trùng Dương
Ba mươi bảy năm
sau khi cùng
nhau cầm bao
nylon lom khom
lội vào vùng
chiến sự để
thu nhặt xác
đồng bào bị
thảm sát bởi
đạn của Sư
Đoàn Pháo Bông
Lau mà cứ như
lén lút vào
kho tội ác
của Cộng sản
để đánh cắp,
câu đầu tiên
anh Nguyễn Kinh
Châu nhắc đi
nhắc lại với
tôi (như cứ sợ
chính mình
cũng sai sót)
là tên đầy đủ
của nghĩa
trang mà nhật
báo ST đã mai
táng 1,841
xác,
“Nghĩa Trang Đồng
Bào Chiến Nạn
Quảng Trị̣ do
nhật báo Sóng
Thần và thân
hữu phụng
lập”.
Một lần đi hốt xác đồng bào bị Việt Cộng chôn sống trong tết Mậu Thân ở Huế, và lần thứ nhì hốt xác đồng bào bị Việt Cộng tàn sát trên Đại Lộ Kinh Hoàng ở Quảng Trị, những hình ảnh ghê rợn đã khắc chạm thật sâu vào ký ức anh Châu, như một thứ đền tưởng niệm Cánh Đồng Chết của nạn nhân Pol Pot ở Cam-Pu-Chea – “trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”.
Trả lời
câu hỏi
của tôi,
anh Nguyễn
Kinh Châu
nhắc lại con
số 1,841
xác nạn
nhân một
cách dễ
dàng như
không cần
khui một
gói thuốc
lá để biết
trong đó
có 20 điếu.
Tôi hỏi tiếp,
làm sao anh
nhớ được
chính xác
như thế, anh
tâm sự,
“Làm sao
không, có
ngày nào
là áo quần
không thấm
mùi hôi của
xác chết,
có xác
nào không
là xác
đồng bào,
anh em?”
Khi mới bắt tay vào việc, chính quyền và quân đội chưa cho phép thường dân qua sông Mỹ Chánh vì vấn đề an ninh (sợ Việt Cộng trà trộn để hoạt động) và vì vấn đề an toàn (sợ đạn pháo binh Việt Cộng bắn trúng làm chết nhóm người đi lượm xác đồng loại). Vấn đề mang một nhóm thường dân vượt qua phòng tuyến quân sự Mỹ Chánh để tìm và thu nhặt xác là chuyện chưa từng xảy ra trước đây trong chiến tranh Đông Dương. Mặt khác, anh em báo ST ngại một khi đăng lời kêu gọi xin độc giả tiếp tay đóng góp, tiền tới tay rồi mà lỡ xác đồng bào lấy về không được sẽ bị mang tiếng lừa phỉnh, nên anh Châu hội ý với anh em phóng viên ST đang có mặt tại Huế, rồi vào Đà Nẵng bàn thêm với bác sĩ Phạm Văn Lương. Kết quả: chúng tôi quyết định thử nghiệm trước bằng cách tự lực.
Anh Châu đã mang chiếc xe gắn máy Honda 68 tới xin cầm cho một thân hữu là anh Huỳnh Văn Phúc, chủ tiệm vàng Phúc Ân kiêm tổng thư ký Hội Đồng Tỉnh Thừa Thiên, lấy 50 ngàn đồng để làm vốn liếng khởi công. Ngạc nhiên thấy anh Châu cầm xe, anh Phúc hỏi dồn, nên đã biết sự thật là anh Châu cần tiền để trao cho thầy Thích Đức Tâm ở chùa Pháp Hải bên cồn Hến đóng quan tài để ra Quảng Trị lượm xác đồng bào bị pháo chết.
Biết việc chúng tôi làm như thế, anh Phúc bảo anh Châu cứ mang xe về, và cho anh chị em ST mượn 50 ngàn tiền mặt, một số tiền không nhỏ lúc bấy giờ, để khởi công. Bên cạnh đó, anh em ST vào Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn 1 tiếp xúc với Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương. Chỉ huy trưởng, thiếu tá Nguyễn văn Cơ đã cho nhóm Sóng Thần 200 bao nylon loại dùng để tẩm liệm quân nhân tử trận. Ngoài ra, nhóm mượn được một xe GMC của Tiểu Khu Thừa Thiên làm phương tiện vận chuyển đoàn hốt xác và xác hốt được.
Về
sau khi số
xác lượm
được tăng
lên tới con
số gần hai
ngàn, anh
Cơ vẫn cung
cấp đầy
đủ để gói
ghém tử
thi đồng
bào, đồng
thời phía
Tiểu Khu
Thừa Thiên
tăng cường
cho mượn
thêm một xe
GMC nữa,
và phía
Tiểu Khu
Quảng Trị
cho mượn 2
GMC khác,
để di
chuyển xác
chết.
Sóng Thần
đã tiến
hành hốt
xác tất
cả 3 đợt.
Khi chị
chủ nhiệm
Trùng Dương
từ tòa
soạn ra
tham dự để
ăn đạn
pháo kích
là đợt
một. Đợt
nầy đoàn
hốt xác
có 4 tổ,
mỗi tổ 4
người, thu
được trên
800 xác.
Về sau
đoàn hốt
xác tăng
lên thành 7
tổ. Sợ
mùa mưa
tới xác
đồng bào
bị vữa và
trôi hết
phần thịt,
chúng tôi
đã tăng
gấp đôi số
nhân công
để rút
ngắn thời
gian.
Khởi đầu,
thầy Đức
Tâm thuê
đóng và
giao cho
đoàn 20
quan tài
để mang
theo, xem
thử đủ
thiếu thế
nào. Lên
đường, anh
em ST chúng
tôi chỉ
dám cầu
mong lượm
được tới
20 xác như
mong muốn
của thầy
Đức Tâm,
vì khu vực
giữa hai
cầu Bến
Đá và
Trường
Phước là
đụn cát
trắng không
nhà cửa
cây cối,
hễ thấy
bóng người
di chuyển
là tiền
sát viên
Việt Cộng
gọi pháo
tầm xa từ
Trường Sơn
bắn xuống.
Kết quả
của ngày
đầu thật
bất ngờ
với con số
96 xác. 20
xác đầu
tiên được
xếp vào
quan tài,
phần xác
còn lại
gói tạm
vào bao
nylon mang
về đặt
trong các
phòng học
của trường
Mỹ Chánh.
Dạo 1968,
anh Nguyễn
Kinh Châu
là ký giả
đã theo
chân đoàn
người đi
khai quật
các hố chôn
tập thể
và đã có
loạt hình
chạy 8 cột
bề ngang
trên báo
Hòa Bình
tường thuật
tội ác
rùng rợn
nầy. Cũng
nhờ quen
biết cũ từ 4
năm về
trước, lần
nầy đề xuất
việc đi
lượm xác,
anh Châu đã
quay lại
Phú Thứ để
tìm gặp và
thuyết phục
các người
chuyên về di
dời xác
chết bốn năm
trước, sau
Tết Mậu
Thân, để họ
bằng lòng
tham gia
công việc
nghĩa tử
dưới làn
đạn pháo
của Sư Đoàn
Pháo Bông
Lau. Đúng
là Việt
Cộng đã
dành cho
những người
nầy những
việc làm
có một
không hai
trong lịch
sử tội ác
chiến tranh.
Nhưng vì
lãnh thổ
Quảng Trị
vẫn còn
giao tranh
và bom đạn,
nên những
người phu
chỉ bằng
lòng nhận
lời với chi
phí 1.600
đồng mỗi
ngày, so
với giá
thuê mướn
làm công
nhật ở
thành phố
Huế lúc bấy
giờ là 100
đồng/ngày,
và giá
vàng 1.600
đồng một
chỉ. Sở
dĩ giá cả
cao như thế
mà nhóm ST
phải chấp
nhận vì khu
vực “Đại Lộ
Kinh Hoàng”
vẫn còn
rất kinh
hoàng, phu
hốt xác ra
đó để thu
lượm xác
không những
phải làm
việc giữa
điều kiện
mất vệ sinh
giữa những
xác chết,
mà còn
phải đưa
lưng đội
đạn pháo
từ Trường
Sơn bắn
xuống.
Những tay
làm báo
chúng tôi
vì nghiệp
dĩ của
mình mà
lăn lưng ra
chốn tên bay
đạn lạc,
nhưng người
dân họ có
lý của họ,
nhất là khi
phải đổi
bát máu
lấy bát cơm
để nuôi
thân và
nuôi gia
đình. Khi
tới bãi xác
người,
những phu
lượm xác
nầy mỗi
người đều
mang theo
một lọ mắm
ruốc. Họ đã
lấy ngón
tay chấm mắm
ruốc bôi lên
mũi, dùng
mùi thối
của mắm để
mong át đi
mùi thối
của xác
chết, và
cũng để
đánh lừa
khứu giác
của mình.
Sau những
ngày đầu
vừa làm vừa
rút kinh
nghiệm,
đoàn hốt
xác buổi
tối về hay
tập trung
ở nhà từ
đường của
chị Tôn Nữ
Mộng Nhiên
ở số 100
đường thuận
An, là nơi
“đóng đô”
của đám
phóng viên
ST trẻ Trần
Tường
Trình,
Đoàn Kế
Tường và
NgyThanh.
Nghe đám
nhà báo
bàn bạc
chuyện
lượm xác,
ban đầu hai
cô chủ nhà
là chị
Mộng Nhiên
và chị Lẫm
góp ý. Từ
từ bén
chuyện, hai
cô tình
nguyện tham
dự trò
chơi với
đạn pháo
kích. Thế
là đoàn
hốt xác có
thêm hai
khuôn mặt
hoàng
phái, đảm
nhiệm việc
ghi chép
sổ sách
và ghi số
mỗi xác,
cùng những
giấy tờ hay
di vật gì
chúng tôi
lấy được
trên thi
thể của
họ̣. Những
vật dụng
và tư trang
cá nhân ấy
được cho
vào bao
nylon có
ghi số
trùng với
số của quan
tài, để về
sau trả lại
cho thân
nhân người
quá cố.
Công tác hốt
xác kéo dài
ròng rã tới bảy
tháng mới hoàn
tất.
Sau khi thu
nhặt hết
xác trên
hai bãi cát
dọc hai bên
đoạn quốc lộ̣
mang tên
“Đại Lộ Kinh
Hoàng” và
mai táng
xong, anh em
ST còn giữ
lại nửa
triệu, tức
một phần sáu
tổng số
tiền lạc
quyên được
từ đọc giả
hảo tâm,
chúng tôi
đã dùng số
tiền nầy
dựng một bức
tượng Đức
Địa Tạng rất
lớn ngay chỗ
có nhiều
xác chết
nhất, lập
một đền thờ
oan hồn, và
tổ chức một
lễ cúng do
anh Lý Đại
Nguyên từ
Saigon đại
diện tòa
soạn ra chủ
tọa. Đền thờ
này vẫn
còn cho đến
ngày nay.
Lời cuối:
Cuộc chiến
nào mà không
có thảm sát,
chiến tranh
nào mà chẳng
có nạn nhân.
Nhưng hình
ảnh của một
đứa bé ngồi
khóc bên xác
mẹ giữa một
chiến trường
thảm khốc
đầy xác
thường dân
như ở Đại Lộ
Kinh Hoàng
vẫn là một
hình ảnh đau
thương nhất
mà chúng ta
không thể
nào quên
được.
Vì vậy tôi
cố tìm cho
được câu
chuyện của
một nhân
chứng đích
thực, còn
sống để kể
lại hầu quý
vị và riêng
tặng cho đại
tá Nguyễn
Việt Hải,
chỉ huy
trung đoàn
pháo Bông
Lau của Quân
đội Nhân dân
của nước
Cộng hòa Sã
hội Chủ
nghĩa Việt
Nam.
Trong tác
phẩm “Mùa hè
cháy”, xuất
bản năm
2005, tác
giả đã viết
thật rõ ràng
là đơn vị
của ông khai
hỏa tập
trung pháo
122, pháo
130 và pháo
155 mà ông
gọi là trận
địa pháo
cường tập
trên Quốc lộ
1 vào đám
ngụy quân
trên đường
bỏ chạy.
Ông đại tá
pháo binh
tác giả của
tác phẩm
“Mùa hè cháy”
đã đích thân
quan sát
trong vai
trò tiền sát
viên để trực
tiếp chỉ huy
bắn.
Bài báo ngắn
ngủi và
khiêm nhường
hôm nay hy
vọng sẽ đến
tay các pháo
thủ miền Bắc
ngày xưa để
họ nhớ lại
thành quả
vào ngày 1
tháng 5
trong chiến
dịch Nguyễn
Huệ 1972.
Ðịnh mệnh
nào đã dành
cho ông Phan
văn Châu còn
sống để định
cư tại Hoa
Kỳ với 11
người con
thành đạt,
hàng năm vẫn
gửi tiền về
giúp cho
miền quê
nghèo khổ xứ
Nhan Biều.
Bây giờ,
những mộ
phần tập thể
của dân oan
chết vì trận
mưa pháo
Bông Lau năm
72 đã chẳng
còn dấu vết.
Những đứa bé
đói sữa nằm
bên xác mẹ
rồi cũng đã
chết hết
trên đại lộ
kinh hoàng
37 năm về
trước.
Nhưng mà sao
tiếng khóc
của em vẫn
còn nghe
văng vẳng
đâu đây …
Giao Chỉ, San Jose
(motgoctroi)
**
https://youtu.be/vsoYnH7XTQk
LỬA MÁU HẬN THÙ
* Nhạc & Lời: Thục Vũ (Cục Chính Huấn QLVNCH)
* Trình bày: Nguyệt Ánh & Việt Dzũng
Giặc từ miền Bắc vô đây
Bàn tay nhuốm máu đồng bào
Giặc từ miền Bắc vô đây
Bàn tay nhuốm máu anh em.
Hận thù đó! Cất cao trong lòng nguời
Hận thù đó! Khắc sâu trong lòng tôi, lòng anh.
Giặc từ miền Bắc vô đây
Bàn tay chiến tích hận thù
Giặc từ miền Bắc vô đây
Bàn tay giếc chóc hôi tanh
Giặc thù đỏ xâm lăng
Giặc thù đỏ bạo tàn
Giặc thù đỏ giết hại dân lành
Đốt phá quê huơng.
Ôi! Vùng Trị Thiên, An Lộc, vùng Tam Biên
Lửa máu từ vực sâu hận thù
Giòng máu đỏ da vàng
Trên đất nghèo nàn đã đổ vì ai
Vì giặc thù đốt phá quê huơng ta
Vì giặc thù bắn giết đồng bào ta
Vì giặc thù còn đó!
Vì giặc thù còn đó!
Anh em ơi! Vùng lên diệt bạo tàn
Anh em ơi! Vùng lên diệt xâm lăng
Anh em ơi! Nuớc có còn ta mới còn
Còn Tự Do là còn cơm no.
*---*
No comments:
Post a Comment